NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU (12/3/1920, phố Hàng Giấy, Hà Nội – hiện sống tại Tp.HCM), là nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực địa lý, lịch sử Việt Nam.
Ông học tại Trường tiểu học Pháp-Việt, phố Huế, Hà Nội và trung học (năm 1939), rồi học đại học và tốt nghiệp Trường Bách nghệ Hà Nội (năm 1941). Ông gia nhập Hội Hướng đạo, Hội Truyền bá quốc ngữ, Phong trào Thanh Lao Công (Phong trào Thanh niên Lao động Công giáo, Jeunnesse Ouvrière Chrétienne JOC – ông là Hội trưởng phong trào ở Hà Nội).
Học xong, ông vào làm Trưởng xưởng (Chef d’atelier) một xưởng công nghệ của Pháp tại Đông Dương; và do có năng lực vẽ kỹ thuật nên ông thường được giao nhiệm vụ vẽ bản đồ; và từ đó ông đã say mê nghiên cứu các bản đồ cổ Việt Nam.
Ông là Bí thư (phụ tá) của Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế (năm 1945). Ông đã tham gia và có những đóng góp nhất định trong Hội nghị trù bị Đà Lạt và Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946. Ông từng tháp tùng Phái đoàn Việt Nam sang Paris để tham dự Hội nghị Fontainebleau (ngày 28/5/1946). Ông được NGUYỄN MẠNH HÀ bảo lãnh sang Pháp và học tại Trường Đại học Công giáo Paris (Institut Catholique de Paris); ông tốt nghiệp Cử nhân ngành Khoa học-Xã hội tại Pháp (năm 1953). Ông còn theo học dự thính tại Trường Đại học Sorbonne. Ông đã cùng các trí thức Việt Nam sang Thụy Sĩ (năm 1954) vận động ủng hộ Phái đoàn Việt Nam (Phạm Văn Đồng dẫn đầu) tham dự Hiệp định Genève 1954.
Sau đó, ông về nước và sống tại Sài Gòn (năm 1955), dạy Sử Địa ở các trường tư thục Công giáo. Ông là giám học (1957-1959) của Trường Trung học Nguyễn Bá Tòng (Trường Phổ thông Trung học Bùi Thị Xuân ngày nay). Ông tham gia soạn sách giáo khoa Sử Địa (từ đệ thất đến đệ nhị chuyên khoa tức lớp 6-11 ngày nay). Từ năm 1960, ông chuyên tâm nghiên cứu và công bố các công trình của mình trên các báo tại miền Nam. Ông là một trong những thành viên tích cực của “Lực lượng thứ ba” trong chính trường miền Nam (kể từ sau Hiệp định Paris 1973). Ông được tướng DƯƠNG VĂN MINH, NGUYỄN VĂN HUYỀN cử làm thành viên của Phái đoàn đại diện Việt Nam Cộng hòa (ngày 29/4/1975) đến Trại Davis để đưa đề nghị ngưng chiến.
Sau năm 1975, ông vẫn tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu dù gặp phải rất nhiều hạn chế về tài chính. Hiện nay ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam. Ông là tác giả của hàng trăm sách đã xuất bản và nhiều bài báo bằng 3 ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh – nổi bật là các công trình nghiên cứu về địa bạ, bản đồ như :
+ Chế độ công điền, công thổ ở Nam kỳ lục tỉnh (1992), Nghiên cứu địa bạ Nam kỳ lục tỉnh (1994)… địa bạ triều Nguyễn-An Giang (1995)… địa bạ triều Nguyễn-Biên Hòa (1994)… địa bạ triều Nguyễn-Gia Định (1994)… địa bạ triều Nguyễn-Định Tường (1994)… địa bạ triều Nguyễn-Vĩnh Long (1994)… địa bạ triều Nguyễn-Hà Tiên (1994)… địa bạ triều Nguyễn-Bình Thuận (1996)… địa bạ triều Nguyễn-Khánh Hòa (1997)… địa bạ triều Nguyễn-Phú Yên (1997)… địa bạ triều Nguyễn-Bình Định (3 tập, 1996)… địa bạ triều Nguyễn-Quảng Ngãi (2010)… địa bạ triều Nguyễn-Quảng Nam-Đà Nẵng (2 tập, 2010)… địa bạ triều Nguyễn-Thừa Thiên Huế (1997)…; Địa chí Bình Định: Địa bạ và phép quân điền (2002); Địa chí tỉnh Gia Định (giới thiệu “Monographie de la province de Gia Định”) (1997); 300 năm địa chính Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh (Viết chung 1997); Địa lý Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh (100 câu hỏi đáp về Gia Định-Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh 2006); Địa chí văn hóa TP.Hồ Chí Minh, Tập I: Lịch sử (viết chung 1998); Tạp Ghi Việt Sử Địa (2 tập) 2017; Việt Nam – Quốc hiệu & cương vực qua các thời đại (1999); Quốc hiệu cương vực-Hoàng Sa Trường Sa, NXB. Trẻ, 2013, 2014; Dấu ấn 50 năm hàng giáo phẩm Việt Nam (2010); Cố cả Léopold Cadière – Từ Việt Nam học đến Việt Nam hóa (2011); Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận (dịch từ “Saigon et ses environs” của Trương Vĩnh Ký) (1997); Gia Định phong cảnh vịnh (dịch từ ghi chép của Trương Vĩnh Ký) (1997); 300 năm kiến trí diên cách Phú Nhuận (viết chung 1988); TP. Hồ Chí Minh hướng về 1000 năm Thăng Long-Hà Nội (viết chung 2010); Lịch sử Phú Yên (viết chung 2009), Bà Rịa-Vũng Tàu Xưa và Nay (viết chung 2000), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (dịch từ “L’empire vietnamien face à la France et à la Chine” của Yoshiharu Stuboi) (2010); Nam Bộ – Đất và Người (Viết chung 2000); 90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Việt Nam (90 ans de recherches sur la culture et l’histoire du Vietnam) (viết chung 1995); Hoàng Xuân Hãn – Tập I: Con người và trước tác (viết chung 1998); Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ 1/2017; v.v.
+ De Saigon à Ho Chi Minh Ville 300 ans d’histoire (1998); From Saigon to Ho Chi Minh City 300 years history (1998); Champa and the Archaeology of Mỹ Sơn (Vietnam) (viết chung 2009); Remarques préliminaires sur les registres cadastraux des six provinces de la Cochinchine (In Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême-Orient.T.LXXVIII.Paris-1991); Partage des rizières à Bình Định en 1839 (In 90 ans de recherches sur la culture et l’histoire du Vietnam.PEFEO.Hanoi-1992).
Ngoài các giải thưởng chuyên môn (Giải thưởng Trần Văn Giàu năm 2005 cho công trình Nghiên cứu địa bạ và ruộng đất triều Nguyễn, Giải thưởng Phan Châu Trinh năm 2008, Giải thưởng về nghiên cứu đầu tiên), ông còn được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trao tặng Kỷ niệm chương Đại đoàn kết (do những nỗ lực của ông trong việc giữ gìn bản sắc và xây dựng khối đoàn kết dân tộc).
BAN BIÊN TẬP
hochanhkientruc.art
10/2022
GHI CHÚ :
◊ Nguồn: Wikipedia, Wikipedia; “Nguyễn Đình Đầu như tôi biết” NXB. Thời Đại và Tạp chí Xưa & Nay, 2010, tr. 321; “Nguyễn Đình Đầu – Hành trình của một tri thức dấn thân”, bài “Cụ Hồ đã giải cứu tôi”. NXB. Thời Đại, 2010, tr. 9-12,Tạp chí Tri Thức trực tuyến, Báo Thanh Niên trực tuyến, Báo Tuổi Trẻ trực tuyến.
BÀI VIẾT LIÊN QUAN :
◊ SÀI GÒN XƯA – qua BẢN ĐỒ Phủ Tân Bình – năm 1815.