Bập bè cấp sách “ê a i-tờ” chưa tỏ mà lại ‘đèo bồng’ đi theo văn hoá ‘lang-sa’1 tại trường dòng – Lasan Taberd 2 Sài Thành vào những thập niên 1970.
Để rồi khi rời ‘mái ấm học trò’ mà ‘liễu ơ’ bước vào ngưỡng cửa ‘học đại’ ở ‘Tổ đình’ Kiến4 Sài Gòn 1974 với bao ‘đêm trắng’ trường kỳ “lên bài”5 và những chuỗi ngày dài ‘chinh chiến’ “vinh quang” trên những cánh đồng dưa miệt vườn Long Phước hay bên bờ các ghềnh đá suối vắng nơi vùng “làng kinh tế mới’ Định Quán, hay trằn trọc qua đêm trên những chiếc sạp nứa kiến bò rỉ rả nơi ven rừng Chiến khu D, … Và dòng ký ức còn lưu giữ mãi những chuỗi ngày dài đầy ‘biến động’ của dòng xoáy lịch sử 1975 …
“Hà Tiên thập cảnh kỳ danh”6 lại trở thành ‘điểm hẹn’ của “Prồ-dê điếc-plôm”7 “Phục hồi Làng đồi mồi Hà Tiên” và là tiêu điểm của cuộc thi ‘Kiến Ba Lan’8 1979 – “Phục hồi một Đô thị nhỏ truyền thống”. Và nơi Thị trấn xa xôi biên giới ấy đã ghi dấu ‘tác phẩm đầu tay’9 ở những tháng ngày ‘vào nghề’ đầu những năm thập niên 1980.
Trở lại ‘Tổ đình’ 196 Pát-xtơ mà nỗ lực ‘vượt dòng’ lên ‘tốp’10 để được hân hạnh ghi thêm một ‘dấu ấn kiến’11 nơi góc giao lộ mang tên hai cụ lừng danh Tây Ta – cụ Đồ12 và cụ Pátx13.
Đã chọn ‘ẩn tu’ nơi “Tổ đình’ thì chỉ có một con đường đáng phải kinh qua – đó là ‘học cao’11 rồi ‘học nghiên“12 – “Cảnh quan Vỉa hè Kiến trúc nhỏ nơi Trung tâm đô thị TP.HCM” – học ‘Kiến’13 rồi lại học “Cảnh”14, học ‘Cảnh to’15 rồi lại học ‘Kiến nhỏ’16…, nhưng “học nữa học mãi” rồi lại không qua phận số “sư” ‘tử’17! – không những chỉ một lần mà cả lần 218 – nên Thôi rồi!… cái ‘đời Kiến’ khi mới bước vào đầu đời thế kỷ thứ 21 với cái ‘mác‘ MSS (tức ‘mác sát sư‘) thay vì ‘mác‘ TS. KTS.!!!
‘Nghiệp đời’ lại đưa đẩy ‘nước chảy chia hai’ – U-A-Hát19 hay Hờ-Bờ-U!20?… mà ‘dòng đời’ lại luôn chảy từ trên nên tụ về nơi ‘chỗ trũng’ Hờ-Bờ-U!… cho đến tròn tuổi nghỉ… mà Vờ-Lờ-U 21 lại réo gọi bên “đường thiên lý” “hữu duyên năng tương ngộ”…
CHÚ THÍCH :
1: Lang-sa theo chữ Hán: Pha Lang Sa (坡 郎 沙), Phú Lang Sa (富 郎 沙), Phú Lãng Sa (富 浪 沙), Pháp Lang Sa (法 浪 沙).
2: Trường Lasan Taberd (1873-1976) được thành lập bởi Hội truyền giáo Công giáo và mang tên của JEAN-LOUIS TABERD – Giám mục địa phận Nam Kỳ (1830-1840). Ngôi trường thoạt đầu có khoảng 160 học sinh “bị bỏ rơi” bởi các gia đình nghèo và do các Sư huynh dòng Lasan (Les Frères des Écoles chrétiennes Jean Baptiste de La Salle) giảng dạy.
3: ‘liễu ơ’ tức lỡ yêu – kiểu nói lái.
4: ‘Tổ đình Kiến trúc’ tức Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn 1957 (nguyên là Trường Cao đẳng Kiến trúc Sài Gòn – từ Đà Lạt chuyển vào năm 1950).
5: “lên bài” – theo “Từ ngữ đặc thù của Dân Kiến” – có nghiã là “bắt đầu dựng vẽ các nét của đồ án trên bản vẽ“.
6: ‘chinh chiến’ – theo nghĩa tham gia lao động của sinh viên các trường đại học vào năm 1975.
7: 10 Cảnh đẹp ngàn xưa của xứ Hà Tiên, bao gồm :
1) Tiêu Tự Thần Chung (Tiếng chuông ở cảnh chùa tịch mịch) tức Cảnh chùa Tam Bảo do MẠC CỬU xây dựng (vào đầu thế kỷ thứ 18) để thờ mẹ (Thái Thái phu nhân);
2) Kim Dự Lan Đào (Kim: vàng; Dự: hòn đảo nhỏ; Lan: ngăn chận; Đào: sóng to: Hòn đảo vàng nhỏ ngăn chận sóng to) tức núi Pháo Đài cao 25m, ở trên có ngọn hải đăng thời Pháp (nay đã được phục hồi);
3) Lộc Trĩ Thôn Cư tức Xóm quê ở Mũi Nai (theo truyền thuyết dân gian khi xưa có chú nai ham mê cảnh đẹp nên đi lạc và chết gục tại đây);
4) Nam Phố Trừng Ba tức Bãi biển ở phía Nam; Trừng ba là sóng lặng, nước yên;
5) Thạch Động Thôn Vân tức Thạch động Làng Vân ở xã Mỹ Đức, Hà Tiên cách biên giới Campuchia 3 km;
6) Đông Hồ Ấn Nguyệt tức Đầm Đông Hồ in bóng ánh trăng, rộng 1.384 ha – nơi giao thuỷ của Sông Giang Thành và kênh Rạch Giá;
7) Giang Thành Dạ Cổ tức tiếng trống canh đêm nơi đồn trú bên sông;
8) Lư Khê Ngư Bạc tức Rạch Vược (có rất nhiều cá vược) ở ấp Thuận Yên, cách Thị xã Hà Tiên khoảng 5 km;
9) Bình San Điệp Thúy tức núi Bình Sơn (núi Lăng) có Lăng Mạc Cửu, mộ Mạc Thiên Tứ, …;
10) Châu Nham Lạc lộ tức đồi Châm Nham (núi Đá Dựng) núi Bãi Ớt, cách Hà Tiên khoảng 36 km.
8: “Prồ–dê điếc–plôm”: phiên âm tiếng Pháp “Projet diplomée”.
9: Cuộc thi ‘Kiến Ba Lan’ với Chủ đề “Phục hồi một Đô thị nhỏ có tính truyền thống” do UIA (International Union of Architects) tổ chức tại Ba Lan vào năm 1979.
10: ‘tác phẩm đầu tay’ là công trình Trụ sở Huyện uỷ Hà Tiên do KTS. NGUYỄN HỮU TRÍ thiết kế và giám sát thi công tại Khu Hành chính núi Ngũ Hổ, thị trấn Hà Tiên 1984.
11: Pát-xtơ (Luois Pasteur, 1822-1895) là nhà sinh học, sinh vật học, hoá học Pháp.
12: ‘lên tốp’ tức vươn lên dẫn đầu và Phương án thiết kế của KTS. NGUYỄN HỮU TRÍ được tuyển chọn trong số 3 Phương án khác của các KTS. NK. Sến, VĐ. Hải.
13: ‘dấu ấn kiến’ nơi góc giao lộ – ý nói công trình Văn phòng Hiệu Bộ và Văn phòng các Khoa, Trường Đại học Kiến trúc TP.HCM.
14: cụ “Đồ” tức nhà thơ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU (1822-1888).
15: cụ Pátx tức Pát-xtơ (Luois Pasteur, 1822-1895).
16: ‘học cao’ – ý nói học bậc Cao học.
17: ‘học nghiên’ – ý nói làm nghiên cứu sinh.
18: học ‘Kiến’ – ý nói học Kiến Trúc.
19: học “Cảnh” – ý nói học Cảnh quan.
20: học ‘Cảnh to’ – ý nói học Cảnh quan đô thị.
21: học ‘Kiến nhỏ’ – ý nói về Kiến trúc nhỏ.
22: “sư” ‘tử’ – sư là thầy; tử là chết – nghĩa là thầy bị chết.
23: Lần 1: Thầy hướng dẫn là GS. NGUYỄN ĐỨC THIỀM (1938-2008); Lần 2: Thầy hướng dẫn là GS. HOÀNG ĐẠO CUNG (1944-2012).
24: U-A-Hát hay UAH (University of Architecture Ho Chi Minh City) tức Trường Đại học Kiến Trúc TP.HCM.
25: Hờ-Bờ-U hay HBU (Hong Bang University) tức Trường Đại học Hồng Bàng.
26: Vờ-Lờ-U hay VLU (Van Lang University) tức Trường Đại học Văn Lang.
BAN BIÊN TẬP
hochanhkientruc.art, 5/2024.